11 trường hợp sẽ bị thu hồi đăng ký, biển số xe kể từ ngày 1/8

Thông tư 58 - Bộ Công an vừa ban hành quy định thủ tục sang tên đổi chủ cho ô tô, xe máy mua bán qua nhiều chủ, không còn hóa đơn mua bán, giấy chuyển quyền sở hữu, đăng ký... Ngoài ra, Thông tư mớ...

Sang tên đổi chủ cho xe mất giấy tờ

Mới đây, Bộ Công an ban hành Thông tư 58 quy định về quy trình cấp, thu hồi đăng ký, biển số phương tiện giao thông cơ giới đường bộ theo đề nghị của Cục trưởng CSGT.

Trong đó, có nội dung các loại ô tô, xe máy mua bán qua nhiều chủ nhưng không còn các loại giấy tờ như hóa đơn mua bán, giấy chuyển quyền sở hữu, đăng ký,... vẫn có thể được sang tên, đổi chủ.

Tại Điều 19, Thông tư 58, quy định về giải quyết đăng ký sang tên xe đối với trường hợp đã chuyển quyền sở hữu qua nhiều người.

Theo đó, người đang sử dụng xe đến cơ quan quản lý hồ sơ xe để làm thủ tục sang tên, ghi rõ quá trình mua bán, giao nhận xe hợp pháp và cam kết về nguồn gốc xuất xứ phương tiện.

Người đăng ký sang tên cần nộp: đăng ký, biển số, giấy tờ chuyển quyền sở hữu xe của người đứng tên trong giấy chứng nhận đăng ký xe và giấy tờ chuyển quyền sở hữu xe của người bán cuối cùng (nếu có).

Trường hợp người đang sử dụng xe có giấy tờ chuyển quyền sở hữu xe của người đứng tên trong giấy chứng nhận đăng ký xe và giấy tờ chuyển quyền sở hữu xe của người bán cuối cùng, thì trong thời hạn hai ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, cơ quan quản lý hồ sơ xe giải quyết đăng ký, cấp biển số (đối với ô tô sang tên trong cùng tỉnh và mô tô cùng điểm đăng ký xe) hoặc cấp Giấy chứng nhận thu hồi đăng ký, biển số xe cho người đang sử dụng xe để làm thủ tục đăng ký, cấp biển số tại nơi cư trú.

 11 trường hợp sẽ bị thu hồi đăng ký, biển số xe kể từ ngày 1/8 - Ảnh 1.

Kể từ 1/8, người dân có thể sang tên đổi chủ phương tiện mua bán qua nhiều người mà không có hóa đơn, chứng từ.

Trường hợp người đang sử dụng xe không có giấy tờ chuyển quyền sở hữu xe: Cơ quan quản lý hồ sơ xe cấp giấy hẹn có giá trị được sử dụng xe trong thời gian 30 ngày; gửi thông báo cho người đứng tên trong đăng ký xe, niêm yết công khai trên trang thông tin điện tử của Cục CSGT và tại trụ sở cơ quan; tra cứu tàng thư xe mất cắp và dữ liệu đăng ký xe ngay sau khi tiếp nhận hồ sơ sang tên.

Sau 30 ngày nếu không tranh chấp, khiếu kiện, cơ quan quản lý hồ sơ xe phải giải quyết đăng ký, cấp biển số (đối với ô tô sang tên trong cùng tỉnh và mô tô cùng điểm đăng ký xe) hoặc cấp Giấy chứng nhận thu hồi đăng ký, biển số xe cho người đang sử dụng xe để làm thủ tục đăng ký, cấp biển số tại nơi cư trú.

Người đang sử dụng xe phải trực tiếp đến cơ quan đăng ký xe làm thủ tục, cam kết chịu trách nhiệm trước pháp luật về nguồn gốc xuất xứ, quá trình mua bán giao nhận xe.

Đối với cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu xe mất cắp, xe vật chứng, sau khi tiếp nhận văn bản đề nghị xác minh, phải trả lời bằng văn bản cho cơ quan đăng ký xe.

Trường hợp nào phải thu hồi đăng ký, biển số

Tại Điều 15, Thông tư 58 cũng quy định những trường hợp phải thu hồi đăng ký, biển số.

Theo đó, 11 trường hợp sẽ bị thu hồi gồm: Xe hỏng không sử dụng được hoặc xe bị phá huỷ do nguyên nhân khách quan; Xe tháo máy, khung để thay thế cho xe khác; Xe tạm nhập của cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài tái xuất hoặc chuyển nhượng tại Việt Nam; Xe được miễn thuế nhập khẩu, nay chuyển nhượng sang mục đích khác;

Xe đăng ký tại các khu kinh tế - thương mại đặc biệt hoặc khu kinh tế cửa khẩu quốc tế theo quy định của Chính phủ khi tái xuất hoặc chuyển nhượng vào Việt Nam; Xe bị mất cắp, chiếm đoạt không tìm được, chủ xe đề nghị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký xe; Xe hết niên hạn sử dụng; Xe không được phép lưu hành theo quy định của pháp luật; Xe có kết luận của cơ quan thẩm quyền bị cắt hàn hoặc đục lại số máy, số khung hoặc số máy hoặc số khung;

Xe đã đăng ký nhưng không đúng hệ biển quy định tại Thông tư này; Xe thuộc diện sang tên, chuyển quyền sở hữu; Xe quân sự không còn nhu cầu cấp biển số xe dân sự; Xe đã đăng ký nhưng phát hiện hồ sơ xe giả hoặc cấp biển số không đúng quy định.

 11 trường hợp sẽ bị thu hồi đăng ký, biển số xe kể từ ngày 1/8 - Ảnh 2.

Thông tư 58 cũng quy định 11 trường hợp sẽ bị thu hồi đăng ký, biển số.

Đối với các trường hợp phải thu hồi đăng ký, biển số, cơ quan đăng ký thông báo cho chủ xe thực hiện việc thu hồi theo quy định.

Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày thông báo, chủ xe không tự giác nộp lại đăng ký, biển số thì cơ quan đăng ký thu hồi trên hệ thống đăng ký quản lý xe và thông báo cho công an các đơn vị, địa phương làm nhiệm vụ đảm bảo trật tự, an toàn giao thông biết để phát hiện và xử lý theo quy định.

Trường hợp đã đăng ký nhưng phát hiện hồ sơ bị làm giả hoặc cấp biển số không đúng quy định, cơ quan đăng ký xe thông báo cho chủ biết, ra quyết định thu hồi theo mẫu. Đồng thời đề nghị cơ quan điều tra làm rõ và xử lý đối với hồ sơ xe giả.

Trung tá Phạm Việt Công - Trưởng phòng Đăng ký xe (Cục CSGT - Bộ Công an) cho biết, hiện nay, việc một phương tiện ô tô hoặc xe máy được mua bán qua nhiều người nhưng không có thủ tục sang tên đổi chủ.

Bên cạnh đó chủ xe thiếu hoặc làm mất giấy tờ như chuyển quyền sở hữu, hóa đơn mua bán... khách quan, thì người dân sẽ không thể thực hiện thủ tục sang tên đổi chủ. "Từ 1/8, người chủ phương tiện chỉ cần chứng minh các điều kiện về an toàn kĩ thuật phương tiện hợp pháp của họ, chứng minh sự hợp pháp như phương tiện không trộm cắp, tranh chấp.

Đồng thời, công an sẽ đăng thông báo công khai về biển số của người này đang làm thủ tục sang tên, để người dân biết có ảnh hưởng đến mình không. Sau đó, cơ quan chức năng sẽ kiểm tra dữ liệu xem phương tiện có phải là xe bị mất cắp hay có tranh chấp, lừa đảo hay không.

Nếu bị thiếu giấy tờ thì có thể yêu cầu chủ phương tiện làm đơn cam kết việc sở hữu và nguồn gốc phương tiện", Trung tá Công nói. Với cam kết của người dân và sau thời gian thông báo không có vấn đề tranh chấp trong 30 ngày, cơ quan công an sẽ làm thủ tục để chuyển đúng tên chủ phương tiện.

Khi chủ phương tiện sang tên xong, dữ liệu của chủ phương tiện vẫn ở trên hệ thống của cơ quan chức năng. Sau này, nếu có dấu hiệu tội phạm xảy ra, chủ phương tiện vẫn phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.